Kinh luật lần thứ nhất
---o0o---
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.Bấy giờ, tôn giả Đại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo: "Này chư hiền, trên đường tôi trở về thành Câu Thi (Kusinàrà) để đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, khi hay tin Ngài nhập Niết bàn, thì có một việc đáng buồn xảy ra: Trong khi các Tỳ kheo khóc than thảm thiết, không thể kiềm chế được lòng thương tiếc Đức Thế Tôn, có người lảo đảo trên mặt đất, bước đi không nổi, thì Tỳ kheo Bạt Nan Đà (Upananda) đang đi trước họ, bảo họ im lặng và nói: "Vị trưởng lão ấy thường dạy chúng ta nên làm như thế này, không nên làm như thế kia; nên học những điều này, không nên học những điều kia, thật là phiền toái.Bọn chúng ta ngày nay mới thoát được nỗi khổ ấy, tùy ý muốn làm gì làm, không còn ai ngăn cản nữa.Vì sao các ông lại thương tiếc khóc than?". Ta nghe lời nói ấy, cảm thấy đau đớn và lo âu. Ngày nay, tuy Phật đã Niết bàn, nhưng giới luật vẫn còn đó, chúng ta phải hợp sức kết tập lại giới luật chớ để cho Bạt Nan Đà cấu kết cùng bè đảng phá hoại chánh pháp.
Các Tỳ kheo đều tán đồng lời nói của tôn giả Đại Ca Diếp, và thưa rằng: "Thưa trưởng lão, A Nan thường hầu cận Thế Tôn, Thầy ấy thông minh, nghe nhiều, gìn giữ kho tàng chánh pháp đầy đủ, nay ta nên mời Thầy vào trong số những người kết tập luật tạng".Tôn giả Ca Diếp liền bảo: "A Nan còn ở địa vị cần phải học (hữu học),còn bị tham ái, sân hận, si mê và sợ hãi chi phối, không nên cho tham dự".Thế nhưng, lúc này tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường thuyết pháp cho 4 chúng.Mọi người nghe pháp đông đúc chẳng kém gì khi Phật tại thế. Tại đây, có một Tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ đang ngồi thiền trên lầu, vì không khí ồn ào không thể du hí trong tam muội giải thoát, bèn quán chiếu xem A Nan đã giác ngộ hay chưa, thì thấy rằng A Nan còn ở bậc hữu học, liền đến chỗ A Nan, đọc lên bài kệ:" Ngồi dưới chỗ cây vắng
Tâm hướng đến Niết bàn.
Thiền định chớ phóng dật
Nói nhiều có ích chi?"A Nan nghe vị Tỳ kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc Ca Diếp không cho mình tham dự kết tập luật tạng nên đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều siêng năng đi kinh hành, mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được. Đến lúc nửa đêm, thân thể mỏi mệt cực độ, thầy định nằm nghĩ một chút, liền nghiêng đầu xuống gối, khi đầu vừa chấm gối, thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc. Các Tỳ kheo biết thế bèn thưa với Ca Diếp: " Đêm qua A Nan đã được giải thoát, giờ đây nên cho thầy vào trong số người kết tập luật tạng". Ca Diếp liền chấp nhận đề nghị ấy. Thế rồi tôn giả chọn thành Vương Xá làm nơi kết tập; vì ở đây có đầy đủ các phương tiện và thực phẩm.Bấy giờ, 500 vị La Hán liền đến thành Vương Xá. Trong tháng đầu mùa hạ, họ lo sửa chữa phòng ốc và chuẩn bị ngọa cụ; tháng thứ hai tọa thiền để hưởng pháp vị giải thoát; đến tháng thứ ba mới tập họp lại một chỗ. Thế rồi, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập Luật tạng, và được đại chúng chấp thuận.Ca Diếp bắt đầu hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế tại đâu, người nào sai phạm, phạm về tội gì v.v... Ưu Ba Ly trình bày rằng: Phật chế giới dâm trước nhất, do Tu Đề Na (Sudinna) vi phạm đầu tiên v.v...Một người hỏi, một người đáp và cuối cùng hỏi lại đại chúng, đại chúng cũng hoàn toàn nhất trí với sự trình bày của tôn giả Ưu Ba Ly. Công việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất gồm đủ cả giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần).Tiếp theo, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và được đại chúng nhất trí.Tôn giả A Nan lần lượt kết tập các kinh sau đây:Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng Kỳ Đà, Sa môn quả, Phạm Động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư Thiên và nhân loại. Những kinh dài kiết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm, những kinh trung bình kết tập lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. ngoài ra tập họp các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng. Thế rồi,tôn giả Ca Diếp tuyên bố: "Từ nay chúng ta đã kết tập giáo pháp hoàn tất. Từ nay trở đi, những gì Phật không chế định thì không được tùy tiện chế định, những gì Phật đã chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì Phật đã chế định".Tôn giả A Nan bấy giờ thưa với tôn giả Ca Diếp: "Chính bản thân tôi từng nghe Phật dạy rằng: "Sau khi ta Niết bàn, nếu thấy những giới nào có tính cách nhỏ nhặt, các ngươi có thể loại bỏ".Ca Diếp liền hỏi: "Thầy cho những giới nào là nhỏ nhặt?".A Nan đáp: "Không biết".- Vì sao không biết?- Vì tôi không hỏi Thế Tôn.- Vì sao không hỏi?- Vì bấy giờ thân Phật đang bất an, sợ làm não loạn Ngài.- Vì thầy không hỏi ý nghĩa những vấn đề ấy, nên phạm tội Đột cát la, phải tự mình nhận tội và sám hối.- Thưa Đại đức, không phải là tôi không tôn kính giới mà không hỏi ý nghĩa những vấn đề ấy nhưng vì sợ làm phiền Đức Thế Tôn, nên không hỏi. Trong vấn đề này, tôi không thấy mình phạm tội, nhưng vì kính trọng và tin tưởng Đại đức, nên tôi xin sám hối.- Khi thầy vá y Tăng già lê cho Thế Tôn, thầy đã dùng chân đạp lên y, do đó, phạm tội Đột cát la...(nt).- Thưa Đại đức, không phải là tôi không kính trọng Phật, nhưng vì lúc đó không có ai cầm y,nên tôi phải dùng chân đạp lên y để vá...(nt).- Thầy đã ba lần cầu xin Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia trong chánh pháp, nên phạm tội Đột cát la...(nt).- Thưa Đại đức, không phải là tôi không tôn kính pháp, nhưng vì bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề Cù Đàm Di từng nuôi dưỡng Thế Tôn đến trưởng thành, rồi Ngài đi xuất gia mà thành Chánh giác. Công ơn ấy cần phải báo đáp, nên tôi mới ba lần cầu thỉnh Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia...(nt).- Khi Phật sắp nhập Niết bàn đã hiện tướng nói với Thầy rằng: Nếu người nào đạt được bốn thần túc, muốn giữ thọ mạng một kiếp hoặc hơn một kiếp đều có thể làm được, Đức Như Lai đã thành tựu vô lượng thiền định, và đã ba lần hiện tướng nói với thầy như thế mà thầy không cung thỉnh Phật trụ thế một kiếp, hoặc hơn một kiếp, nên phạm tội Đột cát la...(nt).- Thưa Đại đức, không phải tôi không muốn thỉnh Phật trụ thế lâu dài, nhưng vì ác ma Ba Tuần che mờ tâm trí của tôi, nên tôi không thưa thỉnh... (nt).- Ngày xưa, Phật đã ba lần nhờ thầy đi lấy nước cho Phật uống, mà rốt cuộc thầy không dâng nước cho Phật, nên phạm tội Đột cát la...(nt).- Thưa Đại đức, không phải là tôi không dâng nước cho Phật, nhưng vì bấy giờ có 500 chiếc xe vừa đi qua phía trên dòng sông khiến cho nước đục sợ uống vào sinh bệnh, nên tôi không lấy nước cho Thế Tôn...(nt).- Thầy đã cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước mọi người, nên phạm tội Đột cát la...(nt).- Thưa Đại đức, không phải tôi muốn cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước nhưng vì trời sắp tối,họ vào thành không kịp, nên tôi mới cho phép...(nt).Tiếp theo, đại hội cứu xét những giới nào có thể loại bỏ,tôn giả Ca Diếp trình bày: " Nếu chúng ta xem chúng học pháp (những pháp cần phải học) là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Bốn giới Ba la đề đề xá ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ. Nếu chúng ta bảo bốn giới Ba la đề đề xá ni là những giới nhỏ nhặt, thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Các giới Ba dật đề cũng là những giới nhỏ nhặt v.v... giờ đây, chúng ta không thể khẳng định giới nào là giới nhỏ nhặt mà loại bỏ một cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo sẽ bảo: "Pháp của sa môn Thích tử giống như mây khói, khi thầy còn sống thì những pháp do thầy chế định các đệ tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập Niết bàn, họ không chịu thực hành nữa". Do vậy, tôi xin khẳng định lại: "Những gì không do Phật chế thì không được tự ý chế định, và những gì do Phật chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì mà Phật đã truyền dạy".Sau khi nghe trình bày, tất cả đại chúng đồng thanh nhất trí với lời tuyên bố của tôn giả Ca Diếp.Lúc này trưởng lão Phú Lâu Na đang ở phương Nam, nghe Phật Niết bàn tại thành Câu Thi, và các trưởng lão Tỳ kheo đang kết tập Tỳ Ni pháp tạng tại thành Vương Xá, liền dẫn đồ chúng đến đó tham dự. Nhưng khi đến nơi, đại hội kết tập vừa xong.Do đó, trưởng lão yêu cầu đại hội đọc tụng lại một lần nữa để trưởng lão và đồ chúng cùng nghe. Đại hội đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu ấy.Trong đại hội kết tập này, được các trưởng lão sau đây chủ trì:1. trưởng lão A Nhã Kiều Trần Như làm đệ nhất Thượng tọa
2. Phú Lâu Na làm đệ nhị Thượng tọa
3. Đàm Di làm đệ tam thượng tọa
4. Đà Bà Ca Diếp làm đệ tứ Thượng tọa
5. Bạt Đà Ca Diếp làm đệ ngũ Thượng tọa
6. Đại Ca Diếp làm đệ lục Thượng tọa
7. Ưu Ba Ly làm đệ thất Thượng tọa
8. A Na Luật làm đệ bát Thượng tọa.Vì cuộc kết tập này vừa đúng 500 vị La hán, không nhiều, không ít, nên được gọi là cuộc kết tập giáo pháp của 500 vị La hán (ngũ phần luật, ĐTK.1421, tr 190b- 192a).
- So sánh và nhận xét
- 1. Nhận xét tổng quát
- Luật ngũ phần trình bày tóm tắt, cô đọng, và chỉ trình bày về sự kết tập.- Luật tứ phần, ngoài phần trình bày sự kiện kết tập, còn nói thêm đôi nét về lúc Phật Niết bàn.- Luật Thập tụng trình bày tương đối phong phú nhất, vì còn thêm nhiều chi tiết lúc Phật Niết bàn.
2.
Những vị chủ trì cuộc kết tập
- Luật Ngũ phần (xem lại trước)- Luật Tứ phần ghi: a) Đà Ê La Ca Diếp, b) Trưởng lão Bà bà Na, c) Đại Ca Diếp, d) Trưởng lão Đại Châu Na.Luật Thập tụng ghi: a) A Nhã Kiều Trần Như, b) Trưởng lão Quản Đà, c) Thập Lực Ca Diếp, d) Ma Ha Ca Diếp.
3.
Những vấn đề Ca Diếp chất vấn A Nan
- Luật Ngũ phần (tóm tắt những trình bày trên): a)- A Nan không hỏi Phật những giới nào là nhỏ nhặt có thể loại bỏ, b)- A Nan đạp chân lên y Tăng già lê của Phật, c)- A Nan đã xin Phật cho phụ nữ xuất gia, d)- A Nan không xin Phật trụ thế lâu hơn nữa mà để Phật Niết bàn, e)- A Nan không lấy nước cho Phật uống khi Phật đang cần. f)- A Nan đã cho phép nữ giới lễ xá lợi Phật trước nhất.- Luật Tứ phần: Bộ này đề cập đến 7 điều.Riêng điều thứ hai khác hẳn hai bộ kia, như sau: Phật đã ba lần yêu cầu A Nan làm người cúng dường mà A Nan nhất quyết không nhận. Còn các điều 1,3,4,5,6, thì giống như các điều 1-5 của Ngũ phần,chỉ đảo lộn vị trí. Điều 7 cuối cùng thì viết: A Nan không ngăn nữ giới khiến họ làm bẩn chân Phật (1) (ĐTK, 1428, tr 966a).- Luật Thập tụng: 5 điều trước giống như Luật ngũ phần, chỉ đảo lộn vị trí. Riêng điều thứ sáu, luật này nói "A Nan đã để lộ âm tàng tướng của Phật cho nữ giới xem (2) (ĐTK 1428, tr 449b).
4-
Một số khía cạnh khác
a. Địa điểm kết tập: cả ba bộ đều nhất trí cho là tại thành Vương Xá.b. Thời gian kết tập: cả ba bộ đều đồng ý cho rằng vào mùa hạ năm Phật Niết bàn.c. Số người tham dự kết tập: cả ba bộ đều ghi nhận con số 500 vị La hán.d. Người phấn khởi nhất khi hay Phật nhập Niết bàn: cả ba bộ đều cho là Tỳ kheo Bạt Nan Đà, một Tỳ kheo bán thế xuất gia khi đã lớn tuổi.e. Tất cả đều đồng ý giữ nguyên những gì Phật chế, nhưng tùy nghi áp dụng, không thêm cũng không bớt.g . Vấn đề tạng Luật: cả 3 bộ đều nhất trí cho rằng kết tập Luật tạng trước do Ưu Ba Ly đảm trách, Kinh tạng sau, do A Nan thực hiện,- Bộ Ngũ phần: chỉ nói kết tập tạng Luật và tạng Kinh. Hai bộ kia thì bảo kết tập cả Luận tạng và do A Nan phụ trách, như sau:- Bộ Tứ phần nói: điều gì liên quan đến những việc làm có nạn hay không có nạn, đều tập họp lại thành tạng Luận.- Bộ Thập tụng nói: Phật dạy rằng ai phạm 5 tội - sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu thì sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn, đó là tạng Luận. Bộ này nói rõ: Từ nay trở đi, mở đầu tất cả các bộ Kinh, Luật, Luận đều dùng câu "Như thị ngã văn, nhất thời ...." (Tôi nghe như vầy, một thuở...)
Có một điều khiến chúng ta phải lưu ý:tuy xuất phát từ một đại hội kết tập mà khi tường thuật lại vẫn có những điều dị biệt. Đó là do trình độ ghi nhận, phương thức trình bày và quan điểm của mỗi bộ phái. Thế nhưng, đặc biệt tư liệu này nằm trong luận tạng, được bảo trì khá tốt, và tương đối còn giữ được tính chất nguyên thủy và trung thực, chưa bị tình trạng "tam sao thất bổn" làm cho sai lạc. Vì vậy, khi đề cập đến lịch sử kết tập Tam tạng giáo điển, chúng ta có thể yên tâm phần nào trong việc dẫn chứng về phương diện sử liệu.
Chú thích(1) Tôn giả Ca Diếp chất vấn A Nan: "Vì sao thầy không ngăn cản nữ giới để họ làm bẩn chân Phật?", A Nan đáp: "không phải tôi cố ý làm như vậy, nhưng vì tâm hồn nữ giới rất mềm yếu, nên khi đảnh lễ chân Phật, họ khóc lóc làm rơi nước mắt trên chân Phật, khiến chân Phật bị nhiễm bẩn".(2) Tôn giả Ca Diếp hỏi A Nan: "Vì sao thầy để lộ âm tàng của Phật cho nữ giới xem?", A Nan đáp: "Vì nữ giới phúc đức mỏng manh, nên muốn cho họ xem tướng âm tàng của Phật. Khi thấy rồi họ sẽ nhàm chán cái thân nữ giới, sau đó mong được cái thân nam tử, nên tôi cho họ xem".
--- o0o ---
Kinh luật lần thứ hai
---o0o---
Sau khi Phật Niết bàn
độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều
phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm
vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác,
dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ
kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp,
4/ Tỳ kheo ăn xong, đi sang nơi khác ăn thêm vẫn hợp pháp, 5/
Tỳ kheo dùng sữa đường hòa lại uống ngoài bữa ăn chính
vẫn hợp pháp, 6/ Tỳ kheo uống rượu tự chế biến từ trái
cây vẫn hợp pháp, 7/ Tỳ kheo tùy ý làm tọa cụ lớn hoặc
nhỏ vừa với mình vẫn hợp pháp, 8/ Tỳ kheo có thể làm
những việc mà lúc còn cư sĩ đã làm vẫn hợp pháp, tất
nhiên có việc có thể làm được và có việc không thể làm
được, 9/ Trong một trú xứ có một nhóm Tỳ kheo làm pháp
yết ma riêng, sau đó đến yêu cầu chúng Tăng chấp nhận pháp
yết ma ấy vẫn hợp pháp, 10/ Tỳ kheo có thể thu nhận và
cất giữ vàng bạc, tiền của vẫn hợp pháp.
Thế rồi, vào các ngày
mồng 8, 14 và 15, các Tỳ kheo ấy thường ngồi ở chỗ đông
người qua lại, đặt một cái bát nước trước mặt, nói
với mọi người rằng đó là cái bát điềm lành, rồi yêu
cầu họ bố thí:
"Những điềm lành
ở trong này, các vị hãy bố thí y bát, giày dép và thuốc
men". Những người muốn bố thí, liền bố thí, những người
không muốn bố thí thì chê trách, hủy báng, nói: "Sa môn
Thích tử không nên nhận vàng bạc, tiền của, giả sử có
ai đem cho, cũng không nên đưa mắt nhìn đến, nay vì sao lại
bày ra cái trò xin bố thí như thế này?".
Bấy giờ, Trưởng lão
Da Xá ở trên giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu
thấy thế, liền nói với các Tỳ kheo: "Các Thầy chớ bày
ra cái trò xin bố thí như vậy. Chính tai tôi từng nghe Phật
dạy: Người cầu xin bố thí phi pháp, và người cầu bố thí
cho kẻ xin phi pháp, cả hai đều có tội". Thầy nói với
các Tỳ kheo xong, lại nói với các bạch y nam nữ già trẻ:
"Các người đừng bố thí như thế. Chính tôi từng nghe
Phật dạy: Người cầu xin phi pháp và người bố thí cho kẻ
xin phi pháp, cả hai đều có tội".
Khi các Tỳ kheo được
vàng bạc, tiền của rồi, liền đem chia cho Da Xá, nói với
Thầy: "Đại đức có thể nhận phần này".
Da Xá đáp: "Tôi
không nhận cái phần bố thí do xin phi pháp như vậy".
- Nếu thầy không
nhận thì có thể cho lại chư Tăng.
- Tôi đã không nhận
thì lấy đâu mà cho chư Tăng?
Thế rồi, các Tỳ
kheo ấy bèn hạch tội Da Xá rằng trước đây Thầy đã nói
cho bạch y biết việc đó, làm như thế là nhục mạ bạch y,
nên họ phạt Da Xá bằng pháp yết ma hạ ý (làm vui lòng người
khác).
Sau khi tuân thủ pháp
yết ma hạ ý, Da Xá liền bảo các Tỳ kheo cử một Tỳ kheo
cùng đi với Thầy đến các nhà bạch y để xin lỗi họ. Da
Xá bèn đi đến chỗ 500 Ưu bà tắc đang tụ họp, nói với
họ: "Các người nên biết, điều gì chánh pháp thì tôi
nói là chánh pháp, điều gì phi pháp thì tôi nói là phi pháp,
điều gì chánh luật thì tôi nói là chánh luật, điều gì
phi luật thì tôi nói là phi luật. Những gì do Phật dạy thì
tôi bảo là do Phật dạy, những gì không phải do Phật dạy
thì tôi bảo là không phải do Phật dạy. Trước đây tôi đã
nói như thế, khiến các Ưu bà tắc nổi giận, nên hôm nay tôi
đến để xin lỗi".
Các Ưu bà tắc nghe
thế, hoảng kinh bảo: "Thưa Đại đức, lúc nào Đại đức
bảo đây là pháp, đây là luật, đây là lời Phật dạy,
khiến cho chúng tôi nổi giận mà nay phải đến xin lỗi?".
Nhân đó, Da Xá mới nói
với họ rằng, ngày trước tại thành Vương Xá, Đức Thế Tôn
có nói với các đại thần của vua Bình Sa Vương rằng:
"Sa môn Thích tử không nên cất giữ vàng bạc châu báu và
dùng nó để buôn bán". Rồi Phật nêu ví dụ về mặt
trời, mặt trăng không sáng tỏ là vì bị 4 thứ khói, bụi và
A tu la che khuất. Cũng thế, Sa môn Thích tử cũng bị 4 thứ
sau đây che khuất: 1/ Không đoạn trừ ái dục, làm điều
bất tịnh, 2/ Đam mê rượu thịt không chịu trừ bỏ, 3/ Chuyên
làm những việc tà vạy để mưu sinh, 4/ Thu nhận vàng bạc
châu báu rồi dùng nó để mua bán kiếm lời. Chỉ có những
ai xem ngũ dục là thanh tịnh mới cất giữ vàng bạc châu báu,
và dùng nó để mua bán, rồi xem như một việc làm hợp pháp.
Phật thường bảo: "Tỳ kheo cần xe thì xin xe, cần người
thì nhờ người, tùy theo những nhu cầu cần thiết Ta đều
cho phép cầu xin, nhưng hoàn toàn không được thu nhận vàng
bạc châu báu và dùng nó để mua bán".
Da Xá lặp lại lời
Phật dạy xong, bèn hỏi các người Ưu bà tắc là những điều
đó có đúng luật, đúng lời Phật dạy hay không. Các người
ấy đều nhất trí thừa nhận là đúng, và phát biểu: "Tại
thành Tỳ Xá Ly hiện nay chỉ có Đại đức Da Xá là số
một trong hàng Sa môn Thích tử". Thế rồi, họ yêu cầu
Thầy trụ trì tại thành Tỳ Xá Ly để họ cúng dường tứ
sự (4 món cần thiết suốt đời).
Sau đó, Da Xá từ giã
các cư sĩ rồi trở về lại trú xứ. Các Tỳ kheo Bạt Kỳ
biết Da Xá được các người Ưu bà tắc tín nhiệm, nên xoay
qua kết tội thầy phạm Ba dật đề, vì trước đây đã xúc
phạm các Tỳ kheo, do đó, phải sám hối. Da Xá khẳng định
rằng mình vô tội nên không có lý do gì phải sám hối. Các
Tỳ kheo Bạt Kỳ bèn tập họp lại, định làm yết ma kết
tội Da Xá ngoan cố không nhận tội. Thấy tình thế gay cấn,
Da Xá liền dùng thần thông bay đến nước Ba Tuần. Trên đường
đi, Thầy gặp 60 Tỳ kheo đã đắc tam minh, lục thông, đều
là đệ tử của A Nan, Thầy liền yêu cầu họ họp sức để
diệt trừ 10 điều phi pháp của nhóm Tỳ kheo Bạt Kỳ, đồng
thời Thầy tiếp tục vận động hai nhóm Tỳ kheo khác, mỗi
nhóm gồm 30 người. Họ cũng đã đạt được đạo quả cao
siêu như nhóm Tỳ kheo trước, và ai nấy đều nhiệt tình hưởng
ứng công việc chính nghĩa của thầy. Rồi thầy tiếp tục
đến núi A Phù mời trưởng lão Tam Phù Đà hợp tác, và trưởng
lão cũng tùy hỷ.
Bấy giờ, trưởng lão
Ly Bà Đa đã đạt được từ tâm tam muội, có đông đảo đồ
chúng, đang ở tại thành Câu Xá Di. Da Xá cũng đến đó mời
trưởng lão tham gia, và trưởng lão cũng hoan hỷ.
Các Tỳ kheo Bạt Kỳ
nghe tin Da Xá đã đến gặp trưởng lão Ly Bà Đa, họ bèn
chở đầy thuyền những y bát của Sa môn và những vật
dụng cần thiết khác, cùng đến đó định mua chuộc trưởng
lão để trưởng lão yểm trợ. Trong thuyền ấy, có một Tỳ
kheo tên Sa Lan, thấy sự việc phức tạp, thầy bèn căn cứ vào
kinh luật chiêm nghiệm xem các Tỳ kheo Bạt Kỳ hành động đúng
pháp hay phi pháp, thì thầy thấy rằng họ phi pháp. Bỗng dưng,
trên không trung có vị thiên thần ba lần xướng lên rằng:
"Đúng thế ! đúng thế ! Các Tỳ kheo Bạt Kỳ hành động
phi pháp như ông đã thấy".
Khi đi đến Câu Xá Di,
các Tỳ kheo Bạt Kỳ liền vào diện kiến trưởng lão Ly Bà
Đa và thưa rằng: "Chúng tôi chở rất nhiều vật dụng
cần thiết của Sa môn đến để cúng dường đại đức,
mong đại đức nạp thọ". Trưởng lão từ chối nói:
"Y bát của tôi đã đầy đủ chẳng cần chi nữa".
Họ lại nài nỉ: "Nếu không nhận nhiều, xin đại đức
nhận cho chút ít". Trưởng lão khẳng định: "Y bát
của tôi đã đủ không thể nào nhận thêm những vật của các
thầy một cách phi pháp".
Biết Trưởng lão Ly Bà
Đa có một đệ tử tên Đạt Ma thường hầu bên cạnh, các
Tỳ kheo Bạt Kỳ liền đến xin cúng dường vật dụng cho
thầy, thầy cũng từ chối. Họ bèn thuyết phục: "Khi
Phật còn tại thế, người ta đến cúng dường Phật, nếu
Phật không nhận thì họ đem cúng dường A Nan, A Nan đều
nhận cả. A Nan nhận thì cũng như Phật nhận". Đạt Ma
nghe thế liền nhận một vật. Nhận rồi liền hỏi: "Các
Thầy muốn điều gì mà cưỡng ép bố thí cho tôi?". Họ
đáp: "Chúng tôi muốn đại đức thưa với Hòa thượng
Bổn sư, tận lực hỗ trợ chúng tôi, đừng để cho Da xá phá
hoại pháp luật của chúng tôi".
Đạt Ma liền đến thưa
với thầy mình: "Hòa thượng nên ủng hộ các Tỳ kheo
Bạt Kỳ", Ly Bà Đa nói: "Những người làm điều phi
pháp, ta không ủng hộ". Đạt Ma thưa: "Mong thầy suy
nghĩ lại". Ly Bà Đa liền khiển trách Đạt Ma: "Nay
ngươi khuyên ta hỗ trợ những kẻ phi pháp, ngươi chẳng
phải là đệ tử của ta nữa. Từ nay trở đi chớ có ở
quanh quẩn bên ta".
Đạt Ma sợ hãi, xấu
hổ, đến thuật lại với các Tỳ kheo Bạt Kỳ sự kiện
vừa rồi và họ bèn an ủi, khuyên Thầy đừng sợ gì cả.
Thế rồi, trưởng lão
Ly Bà Đa suy nghĩ: "Nếu ta dẹp trừ những việc phi pháp
của bọn họ tại đây, họ sẽ khởi lên trở lại, vậy ta
phải cùng nhau đến chỗ ở của họ mà dẹp trừ". Nghĩ
vậy, liền cùng với Da Xá đến thành Tỳ Xá Ly. Nơi thành này,
có vị Tỳ kheo tên là Nhất Thiết Khứ, Thầy là vị Thượng
tọa có uy vọng nhất trong hàng Sa môn Thích tử ở cõi Diêm
phù đề này, đã đắc quả A la hán, có tam minh, lục thông,
cũng là đệ tử lớn nhất của A Nan. Da Xá liền bàn với Ly
Bà Đa, cùng đến gặp Nhất Thiết Khứ để bàn bạc công
việc rồi sẽ thực hiện. Sau khi gặp Thượng tọa Nhất
Thiết Khứ, chào hỏi xong xuôi, Ly Bà Đa một mình đến phòng
Thượng tọa, trải tọa cụ an nghỉ. Đêm đến, Ly Bà Đa suy
nghĩ: "Thượng tọa Nhất Thiết Khứ này đã quá già nua
mà còn nỗ lực ngồi thiền suốt đêm, thì ta nay đâu được
phép an nghỉ". Nhất Thiết Khứ cũng suy nghĩ: "Vị khách
Tỳ kheo này đi đường cực nhọc mà còn ngồi thiền suốt
đêm để hành đạo, thì ta đâu được phép nằm yên".
Hai người ngồi
thiền suốt đêm suy nghĩ về nhau như thế. Đến cuối đêm,
Nhất Thiết Khứ hỏi Ly Bà Đa: "Đêm nay Thầy nhập vào
loại thiền định nào?"
Ly Bà Đa đáp: "Tính
tôi rất nặng lòng từ bi, đêm nay tôi nhập vào từ tâm tam
muội".
- Đó là loại Thiền
định thô thiển. Chẳng hay Thầy đã đắc quả A la hán chưa?
- Đã đắc rồi. Thế
còn Thượng tọa đêm nay nhập vào loại Thiền định nào?
- Tính tôi thích quán
tưởng về "không", đêm rồi tôi nhập vào không tam
muội.
- Đó là việc làm
của bậc đại nhân. Vì không tam muội là pháp của bậc đại
nhân. Nhưng Thượng tọa đã đắc quả vị A la hán chưa?
- Đã đắc rồi.
- Vậy xin Thượng
tọa cho biết, muối để cách đêm có được phép dùng không?
- Việc ấy nên hỏi
giữa chúng Tăng, nếu hỏi riêng tôi, những kẻ phi pháp sẽ
cho tôi là có ý thiên vị và không chấp nhận tôi vào thành
phần bàn luận Tỳ ni (giới luật).
Bấy giờ, Ly Bà Đa
liền tập họp Tăng chúng để luận bàn Tỳ ni, nhưng vì Tăng
chúng đông đảo, không khí ồn náo, khó quyết đoán Tăng
sự nên Thầy đề nghị bạch nhị yết ma đề cử một số
đại diện để chủ trì cuộc họp và quyết đoán các sự
việc. Nhóm Tỳ keo Bạt Kỳ trước hết đề cử 4 vị: 1/Nhất
Thiết Khứ, 2/ Ly Bà Đa, 3/ Bất Xà Tôn, 4/ Tu Ma Na. Nhóm Tỳ
kheo Ấp Ba Lợi cũng đề cử 4 người: 1/ Tam Phù Đà, 2/ Sa
Lan, 3/ Trường Phát, 4/ Ba Sa Lam.
Các Thượng tọa được
Tăng sai bèn nhất trí chọn khu vườn của một nữ thí chủ
đã cúng dường cho chư Tăng, tại Tỳ Xá Ly làm nơi nghị
sự.
Bấy giờ Ly Bà Đa bèn
hỏi Thượng tọa Nhất Thiết Khứ điểm thứ nhất: "Muối
để cách đêm có được phép dùng không?"
Nhất Thiết Khứ đáp:
"Không được dùng".
- Phật chế định điều
này tại nơi nào?
- Tại thành Vương Xá.
- Do ai mà chế?
- Do một Tỳ kheo ở nơi
A lan nhã.
- Phạm về việc gì?
- Phạm về việc dùng
thức ăn để cách đêm, thuộc tội Ba dật đề.
Thế rồi, Ly Bà Đa
kết luận: Đó là pháp, đó là luật, đó là lời Phật dạy,
các Tỳ kheo Bạt Kỳ làm điều phi pháp, phi luật, trái lời
Phật dạy, giờ đây bỏ xuống một thẻ.
Và cứ thế, Ly Bà Đa
hỏi, Nhất Thiết Khứ đáp, cho đến khi kết thúc 10 điều
phi pháp.
Tiếp theo, 8 vị này bèn
suy cử 4 người đại diện là: Nhất Thiết Khứ 136 tuổi
hạ, Ly Bà Đa 120 tuổi hạ, Tam Phù Đà và Da Xá đều 110
tuổi hạ, những vị này có trách nhiệm đem các quyết định
của Đại hội vừa rồi ra công bố trước 700 vị A la hán,
theo thể thức Ly Bà Đa hỏi và Nhất Thiết Khứ đáp như trên.
Cuối cùng, Ly Bà Đa kết luận: "Những gì không do Phật
chế thì không được tùy tiện chế định, những gì do
Phật đã chế thì không được vi phạm. Tăng chúng phải chăm
chỉ học tập những gì Phật đã truyền dạy".
Cuộc kết tập này
vừa đúng 700 vị A la hán, nên gọi là cuộc kết tập của
700 người. (Ngũ phần Luật, ĐTK.1421, tr.192a-194b).
Vài
điều ghi nhận
1/ Lý do kết tập:
cả hai bộ Tứ Phần luật (ĐTK.1428, tr.969c-976a) và Thập
Tụng luật (ĐTK.1435, tr.453c-455c) đều nhất trí với Ngũ
Phần Luật cho rằng do 10 điều phi pháp của nhóm Tỳ kheo
Bạt Kỳ mà phải mở Đại hội kết tập pháp tạng lần
thứ hai này.
2/ Thời gian kết tập:
Ngũ Phần luật và Tứ Phần luật đều ghi nhận là sau Phật
Niết bàn 100 năm. Riêng Thập Tụng luật thì bảo là sau
Phật Niết bàn 110 năm.
3/ Địa điểm kết
tập: cả ba bộ đều nhất trí bảo là tại Tỳ Xá Ly.
4/ Thành phần chủ trì
cuộc kết tập: Hai bộ kia cũng không khác mấy với Ngũ
Phần (xem lại trên), chỉ có cách phiên âm tên của các trưởng
lão hơi khác đôi chút mà thôi.
5/ Số người tham dự
kết tập: Cả ba bộ đều nhất trí cho rằng cuộc kết tập
lần này có tất cả 700 vị A la hán.
6/ Về 10 điều phi pháp:
Cả ba bộ, kể cả Luật Thiện Kiến (ĐTK.1462,tr.677c) và
Luật Nam tông (Luật xuất gia, quyển thượng, T.K.Hộ Tông,
241) cũng ghi nhận là có tất cả 10 điều, nhưng về thứ
tự của 10 điều thì có đảo lộn chút ít (xem bản so sánh
ở sau). Tuy thế, nội dung của từng điều thì các bộ gần
như nhất trí, chỉ khác nhau về cách diễn giải rộng hay
hẹp mà thôi.
Ở điều 2, Ngũ Phần
luật ghi: "Lưỡng chỉ" sao thực thực tịnh" (dùng
hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp), và được
giải thích rõ là: Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ ngồi,
nếu nhận được thức ăn khác, không cần xin phép ăn thêm,
dùng hai ngón tay cầm thức ăn mà ăn vẫn hợp pháp. Chúng tôi
đã so sánh các bộ Tứ Phần luật, Thập Tụng luật, Thiện
Kiến luật - là những tư liệu rất căn bản, cổ xưa, còn
giữ nguyên vẹn - cũng đều giải thích ý nghĩa như Ngũ
Phần. Nhưng không hiểu sao phần lớn các loại luật giải
về sau, thường giải thích điều này khác hẳn. Cụ thể như
Phật Quang Đại Từ Điển, tr.442a, giải thích điều 2 Nhị
chỉ tịnh như sau: Từ lúc mặt trời đúng ngọ cho đến lúc
bóng xế hai ngón tay vẫn có thể ăn được (mà không phạm
luật). Nhân đây, người viết muốn nêu lên thắc mắc này,
xin chất chính các vị tôn túc luật sư, và rất mong vấn đề
này được làm sáng tỏ.
Tại sao gọi 10 điều
ấy là phi pháp? Thiết nghĩ, lúc bấy giờ cách Phật Niết bàn
mới khoảng 100 năm, các vị tôn túc trưởng lão nghiêm trì
giới luật vẫn còn nhiều, chánh pháp còn được nhiều người
sùng thượng, mà các Tỳ kheo Bạt Kỳ lại tự tiện đặt ra
những điều luật mới khác với giới luật Phật chế, nên
mới bị lên án gắt gao như vậy. Kỳ thực, trong 10 điều
ấy chỉ có vài điều là trái luật, ngoài ra, các điều khác
cũng không có gì là trầm trọng lắm, nếu đem so sánh với
thời đại chúng ta ngày nay. Vả lại, nếu muốn cho chánh pháp
tồn tại lâu dài và được truyền bá rộng rãi, thì các
sứ giả Như Lai phải biết tùy theo căn cơ, thời đại và hoàn
cảnh mà áp dụng giới luật một cách uyển chuyển, linh động,
miễn sao không phương hại đến mục đích giải thoát là
được. Nếu không thì giới luật của Phật sẽ có nhiều điều
trở nên vô hiệu. Thế nên, Phật đã cẩn thận căn dặn:
"Này các Tỳ kheo, tuy là những điều do Ta chế định, nhưng
nếu không phù hợp với phong tục tập quán của địa phương
đó, thì không nên áp dụng. Trái lại, có những điều không
do Ta quy định, nhưng vốn là phong tục tập quán của địa
phương ấy thì không thể không thi hành" (Ngũ Phần luật,
ĐTK.1421, tr.153a).
Rồi Đức Phật bổ túc:
"Tỳ kheo khi làm việc vì, nên đem đối chiếu với kinh,
luật, nếu việc làm đó phù hợp với tinh thần của kinh,
luật thì hãy làm. Ngược lại, nếu việc làm đó trái với
tinh thần của kinh, luật, thì không nên làm" (Tứ Phần
Luật, ĐTK.1428, tr.970a).
Tóm lại, tinh thần
của Phật giáo là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến mà
vẫn tùy duyên". Chúng ta có thể linh động áp dụng
giới luật sao cho tốt nhất để đạt đến mục đích giải
thoát, nhưng phải thận trọng trong việc đề xuất những quy
định mới, và nhất là không nên tùy tiện sửa đổi giới
luật của Phật./.
Phụ
lục:
Bản so sánh 10 điều phi pháp
Các bộ luật - Những
điều khoản
- Ngũ Phần luật: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10- Tứ Phần luật: 7 1 3 2 6 8 9 5 4 10- Thập Tụng luật: 1 2 5 3 4 7 9 8 6 10- Thiện Kiến luật: 1 2 4 3 7 8 9 6 5 10- Nam Tông luật: 1 2 4 3 7 8 9 6 5 10
Chỉ có cột 3 của Ngũ
Phần luật (3 Tứ Phần: 5 Thập Tụng: 4 Thiện Kiến: 4 Nam Tông)
về nội dung, so với mỗi bộ có sai khác đôi chút, còn 9
cột kia, tuy vị thứ của mỗi bộ có khác nhau, nhưng nội
dung căn bản có thể nói tương đối nhất quán. (Khi nào có
dịp, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này).
--- o0o ---
Kinh - Luật - Luận lần thứ ba
---o0o---
Sau Phật Niết bàn 100
năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra,
và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra
cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy
ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây
lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng
và bảo trợ .
Vua A Dục ra đời
khoảng 200 năm sau Phật Niết Bàn, tức khoảng 340 năm trước
Tây lịch. Lúc ông còn trẻ vốn tính tình hung bạo, nên không
được phụ vương yêu thích, do đó ông bị đưa đi trấn
nhậm một vùng đất xa xôi. Đến khi phụ vương băng hà, ông
liền đem quân về triều, giết người anh cả là Hoàng thái
tử Tu Ma Na (Sumara) và tất cả những người anh em khác, chỉ
để lại người em cùng mẹ là Túc Đại Đa (còn gọi là Đế
Tu) rồi lên ngôi vua. Sau khi tức vị, trong khoảng 3 năm đầu,
nhà vua chỉ phụng sự ngoại đạo, theo truyền thống của tiên
vương để lại.Đến năm thứ ba, nhân trông thấy một Sa di
tên Nê Cù Đà (Nigrodha) oai nghi tề chỉnh, tướng mạo đoan
trang, nên vua phát tâm tín kính Phật pháp.
Vị Sa di này chính là
con của Tu Ma Na khi vua sát hại các người anh em trong hoàng
tộc, thì người chị dâu, vợ Tu Ma Na, đang mang thai, trốn
được.Sau đó bà sinh ra Nê Cù Đà.Lúc Nê Cù Đà lên 7 tuổi,
thì được A la hán Bà Lưu Na (Mahàvaruna) độ cho xuất gia làm
Sa di. Chuyện kể rằng, lúc Bổn sư thế phát, tóc rơi chưa
tới đất thì Nê Cù Đà đã đắc quả La hán. Vị Sa di này,
trong một tiền kiếp xa xưa, vốn là anh của A Dục. Hai anh em
cùng mộ đạo tu hành, tạo nhiều công đức. Do nhân duyên
ấy nên khi vừa thấy ông, vua A Dục đã có thiện cảm ngay
tức khắc.Hơn nữa, nhờ đã gieo trồng phước đức trong quá
khứ, nên nhà vua dễ dàng kính tín Tam bảo, và phát tâm cúng
dường Tăng chúng một cách nhiệt thành. Số người nhận
được sự cúng dường của Vua lên đến 6 vạn người trong
mỗi ngày. Đồng thời, vua cho xây cất 84.000 ngôi già lam, và
kiến tạo 84.000 ngôi bảo tháp trong khắp quốc độ, cũng như
tại các nước chư hầu xung quanh.
Khi các ngôi bảo tháp
và tự viện hoàn thành, nhà vua mở tiệc khánh hạ, cúng dường
rộng rãi chư Tăng. Nhân thấy oai nghi tề chỉnh và đạo
hạnh thanh cao của Thánh chúng, nhà vua càng thêm tin tưởng
Phật pháp nhiệm mầu. Do đó, vua cho một người con trai là
Ma Sẩn Đà (Mahinda) và một người con gái tên là Tăng Già
Mật Đa (Sanghamitta) cùng xuất gia một lúc.Ma Sẩn Đà bấy
giờ đúng 20 tuổi.Hòa thượng Bổn sư của Thầy là Mục
Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaliputta - tissa) và Tăng Già Mật Đa
vừa 18 tuổi, Hòa thượng Bổn sư của cô là Đàm Ma Ba La (Dhammapàli).
Nhà vua càng ngày càng
nhiệt thành ủng hộ Phật pháp, cúng dường Tăng chúng một
cách trọng hậu, thì ngoại đạo đi khất thực mỗi ngày
mỗi trở nên khó khăn. Do đó, họ gia nhập vào hàng ngũ Tăng
chúng càng lúc càng đông. Trong số đó, có người xuất thân
từ đạo thờ lửa, có người theo đạo lõa thể, và có người
theo đạo dầm nước lạnh. Do tiêm nhiễm lối sống ngoại đạo,
nên mặc dù đã vào trong Tăng chúng, các Tỳ kheo tân tòng này
vẫn hành xử như ngoại đạo. Thậm chí, họ còn đem giáo
luật ngoại đạo ra giảng dạy cho tín chúng, khiến cho Phật
pháp trở nên hỗn loạn.Vì thế, các Tỳ kheo chân chính không
thể hòa hợp bố tát, tự tứ và làm Phật sự chung với
họ. Tình trạng bất ổn cứ kéo dài mãi, khiến Tăng chúng
sống trong sự rạn nứt, bất hòa, suốt 7 năm mà không bố tát
được. Vua A Dục chứng kiến tình trạng chia rẽ của Tăng
đoàn như vậy, nên rất đau lòng. Nhằm chấn chỉnh lại hàng
ngũ Tăng chúng, vua bèn sai một viên quan đại thần đem sắc
lệnh của mình đến các tự viện, truyền cho Tăng chúng
phải cùng nhau hòa hợp Bố Tát. Nhưng họ không nói gì cả.
Vị quan Khâm sai không biết làm thế nào, đành phải trở
về triều, bàn bạc với một viên quan đồng liêu.Vị quan này
bèn hiến kế bằng cách gợi ý: "Tôi thấy đại vương
khi chinh phục các nước, hễ ai không tuân lệnh thì giết
chết; trường hợp này cũng phải làm như thế".
Nghe bạn nói có lý,
viên Khâm sai liền trở lại tu viện, chất vấn vị Thượng
tọa: "Đại vương đã có sắc lệnh khiến Tăng chúng
phải hòa hợp thuyết giới, vì sao các vị không phục tùng?".
Thượng tọa đáp: "Thưa thượng quan. vì các thiện Tỳ
kheo không chịu bố tát chung với các Tỳ kheo ngoại đạo,
chứ không phải không phục tùng".
Ngay lậạp tức, viên
Khâm sai liền tuốt gươm giết vị Thượng tọa ấy, và lần
lượt giết đến chỗ Tỳ kheo Túc Đại Đa, Túc Đại Đa
lền bảo vị ấy dừng tay lại không được cuồng sát bừa
bãi những người vô tội.Viên Khâm sai đành phải dừng tay,
rồi trở về triều để yết kiến nhà vua.
Bây giờ nói về nguyên
nhân khiến cho Túc Đại Đa đi tu: Sau khi vua A Dục lên ngôi bèn
phong cho em là Túc Đại Đa làm Thái tử. Một hôm Túc Đại
Đa vào rừng du ngoạn, bỗng thấy các con ni làm việc theo
bản năng chúng sinh để duy trì nòi giống. Ông nghĩ: "Các
con nai này ăn cỏ xanh, uống nước lã, mà còn như thế, thì
các chư Tăng ở trong phòng kín, có chăn êm nệm ấm, ăn
uống no đủ thì lẽ nào lại không việc ấy". Thế rồi
ông trở về hoàng cung, đem ý nghĩ ngây thơ của mình trình bày
với hoàng huynh A Dục, vua nghe thế, tự nhủ: "Thật quái
lạ! Chuyện không đáng nghi ngờ mà bỗng dưng sinh nghi ngờ.
Có khác nào nơi bình địa bỗng khởi phong ba!". Do đó,
để dạy cho Túc Đại Đa một bài học, vua âm thầm sắp đặt
mưu kế, khiến Túc Đại Đa phạm phải tội nặng đáng bị
tử hình. Lúc ấy, vua phẫn nộ bảo với em mình: "Nay ta
ban cho ngươi một ân huệ cuối cùng, cho phép ngươi làm vua
trong vòng 7 ngày, sau đó ta sẽ trị tội".
Thế rồi Túc Đại Đa
được lên ngôi báu, ngự nơi lầu son điện ngọc, có cung
tần mỹ nữ, đờn ca xướng hát và đủ các thứ sơn hào
hải vị không thiếu thứ gì. Nhưng ông chẳng màng để tâm
đến những thứ ấy mà chỉ ngong ngóng sợ chết đến nỗi
thân thể cực kỳ tiều tụy.
Sau 7 hôm, A Dục hỏi
Túc Đại Đa trong thời gian qua hưởng vinh hoa phú quí tột
bực như vậy có cảm thấy thích thú hay không, thì Túc Đại
Đa thực thà bộc bạch hết những tâm sự khổ đau của mình.
Vua liền bảo: "Chỉ vì biết trước sinh mệnh mình trong
7 hôm nữa sẽ kết thúc mà ngươi còn hốt hoảng, quên ăn
bỏ ngủ, thân thể trở nên tàn tạ đến thế, huống gì các
Tỳ kheo trong từng hơi thở đều nghĩ đến lẽ vô thường,
không biết cái chết đến lúc nào, thử hỏi còn tâm trí đâu
nữa mà đắm trước những vật dục ở đời?".
Được lời như cởi
tấm lòng, Túc Đại Đa liền sinh tín tâm đối với Phật pháp
và chẳng bao lâu ông phát tâm xuất gia làm một Tỳ kheo.
Nhắc lại việc trước,
khi viên quan Khâm sai bị Túc Đại Đa ngăn lại. Ông liền
trở về triều tâu lên nhà vua sự kiện diễn tiến vừa
rồi.Vua nghe thế vô cùng kinh ngạc, đau đớn tột cùng,
ngất xỉu, té quyuống đất. Hồi lâu vua mới tỉnh lại,
thống trách viên quan ấy: "Trẫm sai khanh đến tu viện là
để truyền lệnh cho các Tỳ kheo phải hòa hợp thuyết giới
chứ đâu phải bảo đến giết họ!". Thế rồi, vua tức
tốc ngự giá đến hỏi chư Tăng, trong trường hợp vừa
rồi, vua có tội hay viên Khâm sai kia có tội.Trong các Tỳ
kheo, có người nói do có lệnh của vua mà Tăng chúng bị
chết oan, nên vua có tội. Có người thì bảo cả hai đều có
tội. Nhưng có người bình tĩnh hơn, hỏi vua có ý định
giết hại hay không, thì vua đáp là chỉ muốn xây dựng Tăng
đoàn, tạo lập công đức chứ không có tâm sát hại. Vị
ấy kết luận: "Nếu tâm đại vương như thế, thì đại
vương vô tội,mà kẻ giết người kia có tội"
Qua những trình bày khác
nhau như thế, vua càng thêm phân vân, liền hỏi các Tỳ kheo,
ai có thể làm cho vua hết nghi hoặc. Các Tỳ kheo bảo rằng
chỉ có trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, người đã
đạt tam minh, chứng quả A la hán, mới có thể chấm dứt
được sự nghi ngờ của vua mà thôi.Sau khi nghe lời chỉ
dẫn, vua liền cáo từ các Tỳ kheo, trở về cung đình,
chuẩn bị lễ cúng dường.Chuẩn bị xong các việc, vua phái
người đến tu viện cung thỉnh Mục Kiền Liên Tử Đế Tu và
đại chúng vào triều thọ trai.Thọ trai xong, vua mời trưởng
lão Đại Tu cùng Tăng chúng đến một đạo tràng đã được
thiết lập tại Viên Lâm (Uyỳana). Khi đến nơi, để biết
chắc trưởng lão có thể đoạn trừ được điều nghi ngờ
của mình hay không, vua thỉnh cầu trưởng lão thi thố vài phép
thần thông. Trưởng lão đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu
ấy khiến vua rất khâm phục nghĩ rằng ác pháp sẽ diệt
trừ, Phật pháp sẽ lại trùng hưng. Thế rồi, vua đem sự
việc trước kia ra chất vấn trưởng lão. Trưởng lão bèn
hỏi lại nhà vua: "Khi ấy đại vương có tâm sát hại
hay không?", vua đáp: "Đệ tử chỉ mong có công đức,chứ
không có tâm sát hại". Trưởng lão khẳng định: "Nếu
không có tâm giết hại thì đại vương vô tội". Rồi trưởng
lão đem kinh Bản sinh ra giảng cho vua nghe. Sau khi nghe pháp,
mọi thắc mắc trong lòng của vua đều giải tỏa. Tiếp đến
trưởng lão trình bày thế nào là đúng luật, thế nào là trái
luật, thế nào là đúng pháp, thế nào là phi pháp, những gì
do Phật dạy và những gì không phải do Phật dạy...Vua được
diễm phúc nghe pháp liên tục như thế suốt 7 ngày.Với tâm
trạng hân hoan sau khi nghe pháp, vua nghĩ rằng lần kết tập
pháp tạng này chắc chắn sẽ thành công, liền sai người ngăn
đạo tràng ra thành hai khu vực a và b. Những ai cùng một
kiến giải thì ở chung một khu vực. Đồng thời mỗi khu
vực cử ra một vị đại diện để trả lời những điều
vua hỏi.
Thế rồi, vua hỏi
vị đại diện của một khu vực: "Thưa Đại đức,
Phật pháp như thế nào?". Họ bèn lao nhao lên. Có người
bảo là thường; có người bảo là đoạn; có người nói là
có tưởng, có người nói là không phải tưởng cũng không
phải không tưởng; có người nói là thế gian Niết bàn...".
Vua nghe họ đáp lung
tung như thế, biết chắc nhóm Tỳ kheo này đích thực là
ngoại đạo, chứ không phải Tỳ kheo chân chính. Do đó, vua
ra lệnh họ cởi bỏ pháp phục, ban cho y phục màu trắng, và
đuổi ra khỏi Tăng đoàn. Rồi vua sang khu vực của 6 vạn
Tỳ kheo kia, lên tiếng hỏi vị đại diện: "Thưa Đại
đức, Phật pháp như thế nào?". Vị ấy đáp: "Thưa
đại vương, Đức Phật phân biện giảng dạy theo từng trình
độ". Quay sang trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu,
vua hỏi: "Có đúng thế không, thưa Đại đức?". Trưởng
lão đáp: "Đúng thế, thưa đại vương".Biết Phật
pháp đã được thanh tịnh, vua bèn thỉnh cầu chư Tăng
thuyết giới bố tát trở lại, và sai người bảo vệ chúng
Tăng rồi từ biệt, hồi loan.
Sau khi vua rời khỏi
đạo tràng, 6 vạn Tỳ kheo liền suy cử trưởng lão Mục
Kiền Liên Tử Đế Tu làm chủ tọa và tuyển chọn 999 Tỳ
kheo tinh thông tam tạng, đã đắc tam minh,mở cuộc đại hội
kết tập pháp tạng. Thể thức kết tập lần này giống hai
lần trước, không khác gì cả.Do vậy, Phật pháp trở lại
thanh tịnh, mọi hỗn loạn, cấu uế đều được dẹp trừ.
Đại hội kết tập
lần này trải qua 9 tháng thì hoàn tất, do trưởng lão Mục
Kiền Liên Tử Đế Tu làm chủ tọa, 999 vị Tỳ kheo A la hán
tham dự, nên gọi là cuộc kết tập của 1000 vị La hán.
Sau khi kết tập, trưởng
lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu bèn soạn ra luận thư để
phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo đương thời. Đến
khi biết mình sắp viên tịch, trưởng lão bèn sai vị cao đồ
là Đại đức Ma Sẩn Đà đem luật tạng truyền sang nước Sư
Tử (Srilanca:Tích Lan). Vâng lệnh sư phụ, Đại đức Ma Sẩn
Đà đem giáo pháp sang Tích Lan truyền bá. Đến khi sắp viên
tịch, Đại đức lại đem truyền cho đệ tử là A Túc Tra (Arittha);
A Túc Tra truyền cho đệ tử là Đế Tu Đạt Đa (Tissadatta);
Đế Tu truyền cho đệ tử là Già La Tu Mạt Na (Kàlasumana); Già
La Tu Mạt Na truyền cho đệ tử là Địa Già Na (Dìghanàmaka);
Địa Già Na truyền cho Tu Mạt Na (Dìghasumana); Tu Mạt Na
truyền cho Đàm Vô Đức (Dhamarakkhita); Đàm Vô Đức truyền
cho Đế Tu (Tissa); Đế Tu truyền cho Đề Bà (Deva); Đề Bà
truyền cho Tu Mạt Na (Sumana); Tu Mạt Na truyền cho Chuyên Na Già
(Cùlagàna); Chuyên Na Già truyền cho Đàm Vô Ba Li (Dhammapàlinàma);
Đàm Vô Ba Li truyền cho Xí Ma (Khemanàma); Xí Ma truyền cho Ưu
Ba Đế Tu (Upatissa); Ưu Ba Đế Tu truyền cho Pháp Cự (?); Pháp
Cự truyền cho A Bà Gia (Abhaya); A Bà Gia truyền cho Tiểu Đề
Bà (Cùladeva); Tiểu Đề Bà truyền cho Tư bà (Sìva).
Đó là các luận sư
trí tuệ đệ nhất, thần thông vô ngại, ái tận La hán,
thầy trò truyền nhau, đến nay không dứt (Thiện Kiến Luật
Tỳ Bà Sa, quyển I,II ĐTK 24, tr 678b - 684).
Vài
điều ghi nhận
1. Lý do kết tập: Vì
các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn làm cho Tăng
chúng bất hòa và Phật pháp trở nên hỗn loạn, nên mới
mở đại hội kết tập.
2. Thời gian kết tập:
Lần kết tập này diễn ra sau khi Phật Niết Bàn 218 năm,
tức trước Tây lịch 325 năm. Và công việc được thực
hiện trong thời gian 9 tháng.
3. Địa điểm kết
tập: Tại Viên Lâm (Uyỳana), thành Hoa Thị (Pàtaliputta) nước
Ma Kiệt Đà (Magadha).
4. Vị chủ tọa cuộc
kết tập: Trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaputta -
Tissa).
5. Số người tham dự
kết tập: gồm 1000 vị A La Hán (kể cả vị chủ tọa) đã
chứng Tam minh, tinh thông Tam tạng.
6, Người khởi xướng
và bảo trợ cuộc kết tập: Hoàng đế A Dục (sinh khoảng năm
350 trước Tây lịch).
7. Giá trị của cuộc
kết tập: hai lần kết tập thứ nhất và thứ nhì sử Phật
giáo Nam truyền và Bắc truyền đều có ghi chép, và đều công
nhận. Nhưng lần kết tập thứ ba này chỉ thấy ghi lại
trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (bộ sớ giải Luật tạng
của Nam truyền) và Đảo sử Tích Lan.Còn thư tịch của Bắc
truyền không ghi chép. Vì quan điểm của Bắc truyền cho đây
là sự kết tập của Bộ phái mà thôi, nên không công nhận
như một cuộc kết tập chính thức./.
--- o0o ---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét